Tên lửa hành trình
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tên lửa hành trình (theo thuật ngữ tiếng Anh "Cruise missile") hay còn gọi là tên lửa có cánh (theo thuật ngữ tiếng Nga "Крылатая ракета") hay tên lửa tuần kích là loại vũ khí tên lửa có điều khiển thường là theo chế độ lập trình sẵn để chống các mục tiêu cố định hoặc với radar tự dẫn để chống các mục tiêu di động như tàu chiến... Thực chất đây là một loại máy bay không người lái sử dụng một lần được thiết kế để mang đầu đạn (có thể mang đầu đạn hạt nhân cho chiến tranh hạt nhân hoặc đầu đạn thuốc nổ cho chiến tranh thông thường). Vì là một loại máy bay không người lái nên động cơ của nó là động cơ tuốc bin phản lực của máy bay loại rẻ để dùng chỉ một lần. Tên lửa có tốc độ dưới âm thanh và nhìn bên ngoài khác với các loại tên lửa khác là có cánh nâng để tạo lực nâng khí động học nên còn được gọi là tên lửa có cánh.
Mục lục |
[sửa] Các đặc điểm chiến thuật
- Là loại máy bay không người lái nên có tốc độ tương đối thấp (dưới tốc độ âm thanh) cho phép bay ở độ cao thấp, có thể được lập trình bay men theo cao độ của địa hình nên loại tên lửa này có ưu thế bí mật rất cao gây khó khăn cho hệ thống radar và hệ thống phòng không của đối phương. Nhưng đồng thời cũng có thể bị bắn hạ bởi pháo cao xạ, súng máy phòng không hoặc các vũ khí bộ binh khác.
- So với các loại tên lửa có điều khiển khác giá thành của tên lửa hành trình rẻ hơn nhiều nếu có cùng bán kính hoạt động vì có động cơ và nguyên tắc bay như của máy bay là loại công nghệ rẻ hơn công nghệ tên lửa.
- So với việc sử dụng máy bay của không quân việc sử dụng tên lửa có cánh đắt hơn nhiều vì một quả tên lửa hành trình (ví dụ Tomahawk của Hoa Kỳ giá trên 1 triệu USD) chỉ sử dụng được một lần và phần đắt nhất của nó là hệ thống điều khiển (nếu không tinh đến chi phí gián tiếp như nhân mạng phi công, chi phí đào tạo phi công...)
- Trong chiến tranh thông thường chính vì loại tên lửa này vừa đắt lại có sức công phá có hạn (giới hạn bởi khối lượng đầu đạn) nên chỉ thích hợp để tấn công các mục tiêu có giá trị cao như trạm chỉ huy, nhà máy, cầu lớn, trạm phát sóng, phát điện hoặc các chiến hạm của đối phương...Do đó một cách hạn chế hiệu quả của tên lửa hành trình là phân tán giảm giá trị của từng mục tiêu.
- Tên lửa hành trình hiện đại nổi tiếng là vũ khí có độ chính xác cực cao: đối với loại chống mục tiêu cố định, toạ độ của mục tiêu được cài đặt vào bộ nhớ chương trình điều khiển bay của tên lửa và tên lửa liên tục kết nối với hệ thống định vị toàn cầu (GPS) để hiệu chỉnh đường bay đến mục tiêu do đó đã đạt đến độ chính xác trong phạm vi một vài mét. Do vậy để chống lại loại tên lửa này mấu chốt là phải phá sóng liên lạc của tên lửa với hệ thống định vị toàn cầu và luôn di động tránh là các mục tiêu cố định.
- Tên lửa hành trình rất có cơ hội và tiềm năng là loại vũ khí ám sát và khủng bố.
[sửa] Lịch sử ra đời và phát triển
Tên lửa hành trình có nguồn gốc từ rất sớm, năm 1917 trong Thế chiến thứ nhất đã có dự án "ngư lôi bay" (Kettering bug) của quân đội Hoa Kỳ: người ta thử nghiệm một loại máy bay hai tầng cánh (biplane) chất đầy thuốc nổ cho cất cánh về phía mục tiêu. Sau một khoảng thời gian đã định cánh máy bay sẽ bị gãy ra để máy bay lao xuống đất. Dự án không được áp dụng vì chiến tranh kết thúc trước khi dự án được hoàn thiện.
Trong Thế chiến thứ hai, để chống lại lực lượng hải quân áp đảo của Hoa Kỳ, quân đội Thiên hoàng của Nhật Bản đã dùng các phi đội thần phong cảm tử để lao vào tàu chiến của địch. Đây là các "tên lửa hành trình có người lái".
Đặc biệt tại chiến trường châu Âu nước Đức Quốc Xã đã dùng bom bay V-1 để tấn công nước Anh và chúng thật sự là tên lửa hành trình theo đúng nghĩa hiện đại:
- Bom bay V-1 trang bị một động cơ phản lực còn rất thô sơ, dùng hệ thống tự động lái (autopilot) điều khiển bằng Gyroscope (hệ thống điều khiển theo quán tính tiếng Anh: Inertial guidance system). Tuy hệ thống điều khiển còn rất thô sơ trong chế tạo nhưng ý tưởng là rất mới mẻ và còn được áp dụng trong rất nhiều hệ điều khiển vũ khí hiện đại sau này. V-1 có các thông số kỹ thuật chính như sau:
- Kích thước (Dài × Sải cánh × Cao): 7,9 × 5,4 × 1,42 m
- Tốc độ: 656 km/h
- Bán kính hoạt động: 240 km
- Trọng lượng tên lửa: 2.150 kg
- Trọng lượng đầu đạn: 830 kg
Sau thế chiến thứ hai, tại giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh, cả Liên Xô và Hoa Kỳ đều nghiên cứu triển khai tiếp tên lửa hành trình trên cơ sở bom bay V-1 của Đức để lại. Đặc biệt trong những năm 1960, 1970 Liên Xô nhìn nhận tên lửa hành trình là vũ khí hiệu quả nhất để chống lại với hạm đội tàu sân bay của Hoa Kỳ. Hải quân Xô Viết đi đầu triển khai tên lửa hành trình mà họ gọi là tên lửa có cánh (Крылатая ракета) trên máy bay, trên tàu ngầm tấn công và trên các tàu mang tên lửa cao tốc của họ. Tên lửa có cánh của Liên Xô dùng để chống chiến hạm di động đòi hỏi độ chính xác cao nên hệ thống điều khiển được làm mới hoàn toàn ngoài cơ cấu autopilot được lập trình bay bằng Gyroscope quán tính còn có thêm radar tự dẫn cho đoạn bay cuối để đâm vào tàu đối phương. Năm 1967 một tàu tên lửa cao tốc loại nhỏ của Hải quân Ai Cập loại 200 tấn được Liên Xô trang bị, bằng môt quả đạn đã bắn chìm một khu trục hạm "con muỗi" cỡ trên 2000 tấn của Israel trong Chiến tranh Trung Đông, 1967 gây ra tiếng vang lớn trong giới hải quân thế giới mở ra triển vọng một lực lượng hải quân nhỏ yếu có thể đánh tiêu diệt hải quân địch mạnh hơn.
Trong những năm 1980 trong cao trào chạy đua vũ khí tên lửa tầm trung Hoa Kỳ cho triển khai loại tên lửa hành trình Tomahawk mang đầu đạn hạt nhân với ba phương án phóng từ máy bay, phóng từ tàu chiến và tàu ngầm. Hệ vũ khí Tomahawk của Hoa Kỳ tạo nên bước cách mạng trong công nghệ chế tạo vũ khí nhất là ở hệ thống điều khiển công nghệ cao: tên lửa Tomahawk ngoài hệ thống dẫn đường theo quán tính cổ điển được tích hợp hệ thống dẫn đường lập trình sẵn (tự lập) dựa trên sự thay đổi cao độ của địa hình - hệ thống TERCOM (TERrain COntour Matching system - tên lửa vừa bay vừa dùng mắt thần laser đo cao độ của địa hình và hiệu chỉnh với các tham số của bản đồ số đã được lập trình bay) cho đến nay đây vẫn là bí quyết công nghệ cao của Hoa Kỳ. Công nghệ dẫn đường này cho phép tên lửa hành trình đạt độ chính xác cực cao.
Năm 1982, hãng Boeing đã giao cho Không quân Hoa Kỳ những tên lửa hành trình phóng từ trên không ALCM (Air Launched Cruise Missiles) đầu tiên của họ. Đó là những máy bay nhỏ, cánh hình mũi tên có thể gập lại được (cánh cụp-xòe). Chúng được ngoắc dưới cánh máy bay B52, mỗi máy bay 12 tên lửa.
Những chuyến giao tên lửa hành trình "vô hình" (stealth) đầu tiên cho không lực Mỹ đã diễn ra vào năm 1986. Chương trình đó, được biết chính thức dưới tên gọi ACM (Advanced Cruise Missile, tên lửa hành trình tiên tiến), là một trong những bí mật nhất của Lầu năm góc. Không quân Pháp năm 1986 đã nhận tên lửa tuần tiễu đầu tiên có đầu đạn nhiệt hạch của mình, loại ASMP, tên lửa "không đối đất tầm trung bình", do Aérospatiable chế tạo.
Trong những năm 1990 và sau này với sự ứng dụng rộng rãi công nghệ hệ thống định vị toàn cầu (GPS) tên lửa hành trình đã trang bị công nghệ này cho việc dẫn đường đạt độ chính xác gần như tuyệt đối (Toạ độ mục tiêu được đưa vào chương trình dẫn đường của hệ thống dẫn hướng theo quán tính, trong quá trình bay lên lửa liên tục kết nối với hệ thống định vị toàn cầu để xác định toạ độ của mình, so sánh với toạ độ mục tiêu và đưa ra các hiệu chỉnh tham số bay). Với sự áp dụng dẫn đường bằng GPS bí mật công nghệ TERCOM của Hoa Kỳ mất vai trò độc tôn giờ đây các nước công nghệ hạng hai cũng có thể chế tạo tên lửa hành trình có độ chính xác cao, việc này tạo thách thức phổ biến vũ khí công nghệ cao ra khắp thế giới. Hiện nay đã có ít nhất là 12 nước xuất khẩu tên lửa hành trình và hàng chục nước khác có loại vũ khí này ở các mức độ hiện đại khác nhau.
[sửa] Các hệ tên lửa hành trình nổi tiếng
- Bom bay V-1 của Đức Quốc Xã
- Tomahawk chống mục tiêu mặt đất của Hoa Kỳ
- Harpoon chống tàu chiến của Hoa Kỳ
- Các phương án SS-N của Liên Xô
- Apache của Pháp
- Gabriel của Israel
- Otomat của Ý
- RBS-15 của Thuỵ Điển
[sửa] Xem thêm
- Tên lửa
- Bom bay V-1
- Hệ thống tự dẫn
[sửa] Liên kết ngoài
- Các vấn đề về tên lửa hành trình – trang của Hiệp hội các nhà khoa học Hoa Kỳ (FAS – Federation of American Scientists)