Đài Loan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Bài này nói về đảo Đài Loan. Để đọc về chính thể tại Đài Loan, xin xem bài Trung Hoa Dân Quốc.
Đài Loan (chữ Trung phồn thể: 臺灣 hoặc 台灣; chữ Trung giản thể: 台湾; bính âm: Táiwān; Wade-Giles: T'ai-wan; tiếng Đài Loan: Tâi-oân) là một đảo ở khu vực Đông Á, ngoài khơi đông nam Đại lục Trung Quốc, phía nam Nhật Bản và phía bắc Philippines. "Đài Loan" cũng thường để chỉ lãnh thổ do nhà nước Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) quản lý, bao gồm các đảo Đài Loan (gồm có đảo Lan Tự và Lục Đảo), quần đảo Bành Hồ tại eo biển Đài Loan, Kim Môn và Mã Tổ ở ngoài khơi Phúc Kiến, đồng thời cũng chiếm đảo Thái Bình và đảo Đông Sa ở Biển Đông.
Đảo chính của Đài Loan cũng được gọi là Formosa cho đến thập niên 1960 (các thủy thủ người Bồ Đào Nha gọi nó là Ilha Formosa, nghĩa là "hòn đảo xinh đẹp"), phía đông giáp với Thái Bình Dương, phía nam giáp Biển Đông, phía tây là eo biển Đài Loan và phía bắc là Đông Hải Trung Quốc. Hòn đảo này dài 394 km và rộng 144 km, gồm nhiều dãy núi dốc và bao phủ bởi hệ thực vật nhiệt đới và tiểu nhiệt đới.
Mục lục |
[sửa] Vị thế chính trị
[sửa] Lịch sử
[sửa] Thời tiền sử và những những người định cư đầu tiên
[sửa] Quốc Tính Gia và cai trị của phong kiến Trung Quốc
[sửa] Cai trị của thực dân Nhật
Năm 1894, Nhật phát động cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc, Triều đình Nhà Thanh thống trị Trung Quốc lúc bấy giờ thua trận và năm sau buộc phải ký "Hiệp ước Mã Quan" với Nhật, một nội dung quan trọng trong Hiệp ước này là cắt Đài Loan cho Nhật theo yêu cầu của Nhật. Năm 1945, Nhật bại trận trong đại chiến thế giới lần thứ 2, Trung Quốc đã thu hồi Đài Loan bị Nhật thống trị 50 năm.
Năm 1937, Nhật phát động cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc toàn diện, Trung Quốc bắt đầu bước vào cuộc kháng chiến kéo dài trong 8 năm. Năm 1941, Chính phủ Trung Quốc thông báo cho các nước trong "Bố cáo tuyên chiến với Nhật" rằng Trung Quốc phế bỏ mọi điều ước, hiệp định, hợp đồng trong quan hệ Trung-Nhật kể cả "Điều ước Mã Quan" và sẽ giải phóng c. Năm 1943, Chính phủ ba nước Trung Quốc, Mỹ và Anh ra "Tuyên bố Cai-rô" qui định Nhật cần phải trao trả toàn bộ những vùng đất cướp đoạt của Trung Quốc như vùng đông bắc, Đài Loan, các đảo Bành Hồ, v.v cho Trung Quốc. Năm 1945, ba nước Trung Quốc, Mỹ và Anh đã ký "Thông cáo Bô-xtơn" mà sau này Liên Xô cũng tham gia, qui định các điều kiện trong Tuyên bố Cai-rô cần phải thực thi. Tháng 8 cùng năm, Nhật tuyên bố đầu hàng và cam kết trong điều khoản đầu hàng rằng sẽ thực hiện một cách trung thành những qui định và nghĩa vụ trong Thông cáo Bô-xtơn. Tháng 10, Chính phủ Trung Quốc đã thu hồi Đài Loan bị Nhật chiếm đóng 50 năm, khôi phục thi hành chủ quyền đối với Đài Loan.
[sửa] Thời kỳ của Trung Hoa Dân Quốc
Trong thời kỳ Trung Quốc chống lại quân xâm lược Nhật, Trung Quốc Quốc Dân Đảng với Trung Quốc Cộng Sản Đảng đã xây dựng mặt trận thống nhất dân tộc chống Nhật. Sau khi cuộc chiến tranh chống Nhật giành được thắng lợi, Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu dựa vào sự ủng hộ của Mỹ mở cuộc nội chiến trên phạm vi toàn quốc. Trải qua 3 năm nội chiến, Đảng cộng sản Trung Quốc đánh bại Quốc dân đảng. Năm 1949, Quốc dân đảng thất bại ở đại lục đã buộc phải rút về Đài Bắc, thành phố lớn nhất của đảo Đài Loan, thành lập nước Cộng hòa Trung Hoa (Republic of China), tiếp tục tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ Trung quốc đại lục và Mông Cổ. Ở Trung quốc lục địa, đảng Cộng sản Trung quốc thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và tuyên bố chủ quyền của mình lên đảo Đài loan và xem Đài loan là một tỉnh phản loạn.
Hiện nay, Đài Loan và Trung Quốc vẫn đang tranh cãi về quyền tự chủ của Đài Loan, vốn bị Trung Quốc coi là một phần của Trung Quốc, trong khi đó Đài Loan lại cho rằng họ là một nước độc lập và có quyền tự chủ.
[sửa] Địa lý
[sửa] Phân chia hành chính
[sửa] Dân số
Đảo Đài Loan người đông đất ít. Tính đến cuối năm 2001, dân số Đài Loan là 22,4 triệu người, trung bình mỗi một kilômét vuông có 619 người.
Cơ cấu tuổi tác của dân số Đài Loan có xu thế già hoá. Đến cuối năm 2001, tỷ lệ dân số từ 0-14 tuổi giảm xuống còn 25,8%, tỷ lệ dân số từ 15-64 tuổi tăng lên đến 67,4%, và tỷ lệ dân số trên 65 tuổi tăng lên đến 6,8%.
Dân số Đài Loan rải rác không đồng đều ở các khu vực. Vùng núi có diện tích chiếm 1/3 tổng diện tích Đài Loan, có độ cao so với mặt biển trên 1000 mét, nhưng trung bình mỗi một kilômét vuông chỉ có hơn 20 người. Còn ở thành thị, mỗi một kilômét vuông có hơn 4800 người, nhất là ở thành phố Đài Bắc, Cao Hùng, Đài Trung, Cơ Long, Tân Trúc, Gia Nghĩa, Đài Nam, dân số càng đông. Diện tích của 7 thành phố nói trên chỉ chiếm 2,9% tổng diện tích cả tỉnh, nhưng dân số chiếm 31% tổng dân số Đài Loan.
Tùy theo sự phát triển của kinh tế-xã hội, chính sách dân số của Đài Loan không ngừng được điều chỉnh. Kể từ năm 1965, Đài Loan bắt đầu thực thi chính sách "Kế hoạch hóa gia đình", chủ yếu bao gồm nội dung hạn chế tuổi tác sinh đẻ của thanh niên nam nữ, và chính sách kêu gọi một đôi vợ chồng chỉ đẻ hai con. Sau đó, tỷ lệ sinh đẻ của phụ nữ đến tuổi sinh đẻ giảm dần, đóng góp nhất định cho việc hòa dịu sự tăng trưởng của dân số. Nhưng việc giảm thiểu dân số dẫn đến vấn đề dân số già hóa và lao động tăng ít. Nên, năm 1990, nhà đương cục Đài Loan sửa đổi "Cương lĩnh chính sách dân số", nêu ra chính sách một đôi vợ chồng có thể đẻ 3 con. Mấy năm gần đây, nhà đương cục Đài Loan tiến thêm một bước áp dụng chính sách khuyến khích sinh đẻ.
Đài Loan có nhiều dân tộc, chủ yếu là dân tộc Hán, dân tộc Mông Cổ, dân tộc Hồi, dân tộc Mèo, dân tộc Cao Sơn v.v. Trong đó dân số dân tộc Hán chiếm trên 97% tổng dân số. Cộng đồng dân tộc Hán chủ yếu gồm người miền nam Phúc Kiến và người Khách Gia. Phần lớn người miền nam Phúc Kiến có quê quán Thuyền Châu hoặc Chương Châu tỉnh Phúc Kiến, và phần lớn người Khách Gia có quê quán Mai Châu và Triều Châu tỉnh Quảng Đông.
Dân tộc Cao Sơn là dân tộc thiểu số có dân số nhiều nhất ở Đài Loan. Về nguồn gốc của dân tộc Cao Sơn, có nhiều giải thích khác nhau, nhưng ngày càng nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy ông cha của dân tộc Cao Sơn Đài Loan là từ đất liền Trung Quốc di chuyển tới Đài Loan. Dân tộc Cao Sơn Đài Loan gồm đồng bào sống ở đồng bằng và sống ở vùng núi.
Dân số dân tộc Cao Sơn luôn duy trì đà tăng thêm, tính đến năm 2001, dân số của dân tộc Cao Sơn Đài Loan đạt tới 415 nghìn người.
[sửa] Kinh tế
nền kinh tế dang phat triển
[sửa] Văn hóa
[sửa] Ngôn ngữ
Ngôn ngữ chính thức ở Đài Loan là tiếng Quan thoại, ngoài ra còn có một số thổ ngữ.
[sửa] Tôn giáo
Do ảnh hưởng một phần trung quốc nên đa số là tôn giáo phật.
[sửa] Văn hóa "cửa hàng tạp hóa"
[sửa] Xem thêm
[sửa] Liên kết ngoài
Các nước ở châu Á | |
---|---|
Afghanistan | Ai Cập | Armenia1 | Azerbaijan1 | Ả Rập Xê Út | Ấn Độ | Bahrain | Bangladesh | Bhutan | Bờ Tây2 | Brunei | Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất | Campuchia | Dải Gaza2 | Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc)4 | Đông Timor | Gruzia1 | Hàn Quốc | Hồng Kông3 | Indonesia | Iran | Iraq | Israel | Jordan | Kazakhstan1 | Kuwait | Kyrgyzstan | Lào | Liban | Ma Cao3 | Malaysia | Maldives | Mông Cổ | Myanma | Nepal | Nga1 | Nhật Bản | Oman | Pakistan | Palestin | Philippines | Qatar | Singapore | Síp1 | Sri Lanka | Syria | Tajikistan | Thái Lan | Thổ Nhĩ Kỳ1 | Triều Tiên | Trung Quốc | Turkmenistan | Uzbekistan | Việt Nam | Yemen |
|
1. Thường gắn với châu Á về mặt địa lý, tuy nhiên cho là thuộc Châu Âu về mặt văn hóa và lịch sử. 2. Lãnh thổ do Israel kiểm soát, Chính quyền Palestin quản lý. 3. Khu tự trị đặc biệt của CHNDTH. 4. Xem thêm: Vị thế chính trị Đài Loan |