Nguyễn Văn Thành
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Văn Thành là một trong những vị khai quốc công thần của triều Nguyễn và là một trong những người có công lớn nhất trong việc đưa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên của triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.
Mục lục |
[sửa] Cuộc đời và sự nghiệp
[sửa] Thân thế
Nguyễn Văn Thành sinh năm Đinh Hợi (1757), tiên tổ của ông người Quảng Điền , phủ Thừa Thiên, tằng tổ là Nguyễn Văn Toán dời vào Gia Định. Tổ là Nguyễn Văn Tính lại dời đến ở Bình Hòa. Cha là Nguyễn Văn Hiền lại dời vào Gia Định.
Sử cũ ghi: "Nguyễn Văn Thành trạng mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ".
Năm 1773, ông cùng cha ra tận đất Phú Yên ngày nay để theo lực lượng chống Tây Sơn.
Năm 1778, sau khi cha mất, ông theo Nguyễn Văn Hoàng đóng đồn ở Phan Lý. Khi Nguyễn Văn Hoàng mất, Nguyễn Ánh cho triệu ông về.
[sửa] Sự nghiệp
Năm Bính Ngọ (1786), ông cùng Lê Văn Quân giúp Xiêm đánh tan quân Miến Điện ở Sài Nặc (trên đất Xiêm), vua Xiêm thán phục trở về đem vàng, lụa đến tạ, lại ngỏ ý một lần nữa giúp quân cho Nguyễn Ánh thu phục Gia Định. Nguyễn Ánh triệu chư tướng hội bàn, ông tâu rằng: "Vua Thiếu Khang chỉ một lữ còn dựng được cơ đồ nhà Hạ. Ta nuôi sức mạnh mà thừa chỗ sơ hở thì việc có thể làm được, lính Xiêm tàn ngược, không nên nhờ họ giúp, nếu nhờ binh lực họ mà không thành công lại có sự lo sau, không bằng cứ yên tĩnh để chờ cơ hội là hơn", vua cho phải, việc ấy đành thôi.
Năm 1787, vào mùa thu, Đại Nam Liệt Truyện ghi:...trận đánh ở Mỹ Tho, quân ta thất lợi. Hoặc có người bảo Thành về ẩn quê nhà, để đợi thời cơ. Thành nói rằng: "Nghĩa cả vua tôi sống chết vẫn theo đi, sự thành bại nhờ trời, ta đoán trước sao được, và nhân bị quở mà đi, nhân thua mà trốn là phản phúc, tiền nhân ta không làm thế."
Năm 1801, ông lãnh ấn Khâm Sai Chưởng Tiền Quân, Bình Tây Đại Tướng Quân, tước Quận Công.
Ông là người: "biết chữ, hiểu nghĩa sách, biết đại thể, ở trong chư tướng, vua trọng Thành hơn cả, không cứ việc lớn việc nhỏ đều hỏi để quyết đoán. Mỗi khi ông đến chầu vua cho ngồi thong dong hỏi han, ông cũng đem hết sức tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch nhà nước, mưu kế việc binh, biết điều gì là nói hết, cũng nhiều bổ ích".[cần chú thích]
Về tài cầm binh của ông, theo nhiều nhà nghiên cứu thì ông là người : "phân tích kĩ luỡng, đâu là điểm mạnh, đâu là thế yếu, rồi mới quyết đoán, lúc tiến, khi lui nhằm giảm thiểu hao tổn tướng sĩ".
Năm 1802, vua Gia Long nghĩ Bắc Hà mới bình định, dân vật đổi mới, Thăng Long lại là trung tâm của Bắc thành, nên được trọng thần để trấn thủ bèn phong cho ông làm Bắc Thành Tổng Trấn. Ban cho sắc ấn trong ngoài mười một trấn đều thuộc vào cả, các việc truất nhắc quan lại, xử quyết việc án, đều được tiện nghi làm việc, sau mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị.
Vào tháng chạp năm 1802, tại Thuận Hóa, ông đứng chủ tế ở lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với nghĩa quân Tây Sơn. Ông đã soạn bài Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong, lúc tế ông đọc bài văn này, lấy cái cảm tình của một ông võ tướng mà giải bày công trạng anh hùng của kẻ đã qua, thổ lộ tấm lòng thương tiếc của người còn lại, giọng văn hùng hồn, đây thật là một áng văn chương tuyệt bút của văn học Việt Nam.
- Chi tiết xem bài Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong
Năm 1809, gặp Bắc Thành dân đói, ông dâng sớ tâu: " Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. Sau khi các trấn bị thiên tai, nhân dân ngày càng đói lắm, xin bàn cách phát chẩn và cho vay để đỡ túng ngặt cho dân" vua đều nghe theo cả.
Năm 1810, ông được triệu về kinh, lãnh ấn Trung Quân, rồi được giao cử chức tổng tài trong việc soạn bộ Hoàng Việt Luật Lệ (thường được gọi là luật Gia Long). Bộ luật có hai phần, chia làm hai mươi hai quyển, có tất cả ba trăm chín mươi tám điều, ban hành năm 1812, đến năm 1815 được khắc in và định Quốc Sử. Hoàng Việt Luật Lệ là bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất lúc bấy giờ.
- Học giả người Pháp tên là Philastre khi đến Việt Nam vào giữa thế kỷ 19 là người am tường Việt-Hán đã nghiên cứu, phân tích, so sánh những điểm giống và khác nhau giữa bộ luật Gia Long với các bộ luật Trung Hoa, nhất là với bộ luật nhà Thanh...
Trước khi ban hành, Nguyễn Văn Thành có dâng sớ tâu lên vua Gia Long, trong sớ ông trình bày về việc: ...đặt lại quy tắc khoan hồng và thưởng phạt. Khi xem đến luật triều Thanh, đức Thánh thượng nhận thấy đó là bộ luật gồm đủ các sắc luật của các triều đại trước, nên ban sắc chỉ dạy các quan đem ra bàn bạc, xem xét cùng hạ thần ngỏ hầu chọn lấy những gì khả dĩ soạn thành bộ luật riêng để dùng trong nước...
[sửa] Và Vụ trọng án lớn nhất thời Nguyễn
Năm 1815, người con trưởng của ông là ông Nguyễn Văn Thuyên đỗ hương cống, vốn là người hâm mộ văn chương, thường làm thơ, ngâm vịnh văn thơ với những kẻ sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, ông Thuyên có làm bài thơ tặng, thơ rằng:
- Văn đạo Ái Châu đa tuấn kiệt,
- Hư hoài trắc tịch dục cầu ty.
- Vô tâm cửu bảo Kinh Sơn phác,
- Thiện tướng, phương tri Ký-bắc Kỳ.
- U-cốc hữu hương thiên lý viễn,
- Cao vương minh-phượng cửu thiên tri.
- Thư hồi được đắc Sơn trung tể,
- Tá ngã kinh-luân chuyển hóa ky.
Dịch nôm là:
- Ái-châu nghe nói lắm người hay,
- Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
- Ngọc phác Kinh-Sơn tài sẵn đó,
- Ngựa Kỳ Ký-bắc biết lâu thay.
- Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
- Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.
- Sơn tể phen này dù gặp gỡ,
- Giúp nhau xoay-đổi hội cơ này.
Một số người vốn có tị hiềm với ông dựa vào hai câu cuối của bài thơ mà lập luận, suy đoán, thêu dệt thành ý phản loạn, truất ngôi vua.
Mọi việc kêu oan của ông đều không được Gia Long minh xét. Ông nói với thống chế Thị Trung Hoàng Công Lý: "án đã xong rồi vua bắt bề tôi chết, bề tôi không chết, không phải là trung". Ông mất năm Đinh Sửu (1817), thọ sáu mươi tuổi.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần trong tác phẩm Lần theo dấu xưa, nhận xét: "chừng nào còn những vụ trọng án, có cội nguồn đại loại như Vụ trọng án lớn nhất thời Nguyễn thì xã tắc chưa thể nào gọi là thái bình được."
[sửa] Đền thờ
Tại xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, trên cuộc đất cao, ngôi đền thờ đức Tiền Quân được xây dựng từ năm 1820. Trải qua hơn 180 năm, sau đôi lần trùng tu, đền có dáng uy nghiêm, trầm mặc như ngày nay. Hằng năm vào ngày rằm tháng mười một âm lịch là ngày giỗ của ông.
[sửa] Xem thêm
[sửa] Tài liệu tham khảo
- Đại Nam liệt truyện - Quốc Sử Quán Triều Nguyễn - Viện sử học Việt Nam - NXB Thuận Hóa,2006
- Đại Nam thực lục - Quốc Sử Quán triều Nguyễn - Viện sử học Việt Nam - NXB Giáo Dục,2004
- Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim - NXB Trung Tâm Học Liệu,1971
- Quốc Văn trích diễm - Dương Quảng Hàm - NXB Bốn Phương,1950
- Lược khảo Hoàng Việt luật lệ - Nguyễn Quang Thắng - NXB Văn Hóa Thông Tin Hà Nội,2002
- Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử - Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Bá Thế - NXB Tổng Hợp TP.HCM,2005
- Ý kiến của nhà văn Sơn Nam
- Tài liệu Đình Tân An - Phan Thanh Đào - Bảo tàng Bình Dương
- Lần Theo Dấu Xưa - Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo Dục,2004
- Án Xưa Tích Cũ - Lê Đức Hạnh, Hoàng Khôi, Lê Huy Trâm, Lê Văn Đình - NXB Tổng Hợp Đồng Nai.
- Lược Khảo Lịch Sử Văn Học Việt Nam - Bình Đức Tịnh